Thứ Hai, 23 tháng 9, 2013

MỘT CÁI NHÌN TIẾN HÓA VỀ TRI THỨC KHOA HỌC

MỘT CÁI NHÌN TIẾN HÓA VỀ TRI THỨC KHOA HỌC

(Karl Popper, “Tri thức khách quan”, 2013, NXB Tri thức)
Nguyễn Minh

Karl Popper (1902-1994) là một trong những nhà triết học xuất sắc nhất của thế kỉ XX. Những đóng góp của ông cho triết học trải rộng trên rất nhiều lĩnh vực: chủ thuyết duy thực, nhận thức luận, triết học chính trị, triết học ngôn ngữ, … nhưng ông luôn được nhớ đến như triết gia làm nên cuộc cách mạng trong triết học khoa học nửa đầu thế kỉ XX, mà ảnh hưởng của nó vẫn còn sâu rộng đến tận ngày nay. Tư tưởng về triết học khoa học của ông tập trung trong ba cuốn “Logic khám phá khoa học” (1934), “Phỏng định và bác bỏ” (1953), “Tri thức khách quan” (1972); trong đó “Tri thức khách quan” trình bày một cách hoàn thiện và tổng quát nhất những thành tựu triết học Karl Popper đạt được.
Tìm hiểu những chủ đề chính của cuốn sách cũng là cách chúng ta bước đầu tiếp thu di sản triết học khoa học đồ sộ của Karl Popper.
1.     Bài toán quy nạp và vấn đề phân ranh[1]
Khoa học, trong giai đoạn đầu, được xây dựng trên cơ sở của thuyết quy nạp. Theo đó, khoa học bắt đầu từ việc tích lũy các quan sát riêng lẻ, khi số lần quan sát các hiện tượng lặp đi lặp lại đủ lớn, có thể rút ra một quy luật khách quan chung (ví dụ quan sát 1000 lần việc thả quả táo xuống thì quả táo rơi, từ đó ta có thể rút ra một quy luật vật lí nào đó); hay nói cách khác là từ kinh nghiệm nâng lên lí luận. Sau này thuyết quy nạp được phát triển một bước cao hơn thành thuyết kinh nghiệm logic của trường phái Vienna. Nhưng thuyết này có rất nhiều nhược điểm như:
-         Không có gì đảm bảo các quan sát trong tương lai có thể lặp lại hoàn toàn giống với các quan sát trong quá khứ.
-         Các kinh nghiệm chỉ cho ta thấy thứ tự trước sau của các hiện tượng, chứ không đủ để đưa ra một mối quan hệ nhân quả giữa các hiện tượng.
Người đầu tiên công kích mạnh mẽ thuyết quy nạp, làm lung lay toàn bộ nền tảng của khoa học; là David Hume. Nhưng ông giải quyết bài toán quy nạp bằng cách biện minh cho quy nạp là một “tập quán tâm lí” chứ không phải vấn đề logic hay nhận thức. Từ gợi ý của Hume, Popper tiến tới một phủ định triệt để bài toán quy nạp truyền thống và tiến đến việc xây dựng khái niệm “kiểm sai”. Quan điểm của ông như sau:
(P1) Giả thuyết tồn tại trước quan sát. Khi đã phỏng đoán ra giả thuyết, các nhà khoa học tiến hành quan sát để trắc nghiệm lại giả thuyết đó.
(P2) Một giả thuyết chỉ đứng vững khi người ta chưa tìm được các quan sát đi ngược lại nó.
(P3) Khi tìm được các quan sát chứng tỏ giả thuyết là sai, thì giả thuyết đó bị bác bỏ, từ đó một giả thuyết mới được sinh ra.
Nhờ vào phép kiểm sai, Popper đã phủ định mối liên hệ giữa phép quy nạp và khoa học, chỉ ra tiêu chuẩn của khoa học là “kiểm sai”; vì giả thuyết khoa học không thể kiểm đúng, nhưng có thể kiểm sai.
Từ quan điểm này, Popper đặt ra tiêu chuẩn phân ranh giữa khoa học và phi khoa học hay trả lời câu hỏi: “Khoa học là gì?”. Ông cho rằng “Mọi lí thuyết [khoa học] đều là các giả thuyết, tất cả đều có khả năng bị đổ”. Vì thế linh hồn của khoa học là sự phê-phán–không–biện–minh; trái với tôn giáo hay siêu hình học - nơi các “chân lí” được miễn nhiễm với các phê phán hay không thể được trắc nghiệm để kiểm chứng tính đúng sai. Đó cũng chính động lực phát triển của khoa học.
2.                       Sự tăng trưởng của tri thức khoa học[2]
Với Popper, câu hỏi trung tâm của nhận thức luận không phải là “Nguồn gốc của tri thức từ đâu?” mà là “Tri thức tăng trưởng như thế nào?”; và khảo sát tri thức, không gì quan trọng bằng khảo sát tri thức khoa học.
Tiếp tục ý tưởng “kiểm sai”, Popper khái quát sự tăng trưởng của tri thức khoa học (rộng hơn là sự tăng trưởng của tri thức) làm bốn bước:
1)    Khoa học bắt đầu từ các “nan đề” (problem). Nhà khoa học phải suy nghĩ, tìm hiểu nan đề đó.
2)    Nhà khoa học phỏng định các giả thuyết có thể giải quyết được nan đề đó.
3)    Các giả thuyết, lí luận khác nhau được đưa ra; tiếp thu và cạnh tranh với nhau, trải qua sự kiểm nghiểm nghiêm ngặt của quan sát và thực nghiệm, dần dần loại bỏ các sai lầm; từ đó lí thuyết mới ra đời, có độ cận chân (gần với chân lí) cao.
4)    Lí thuyết mới đó tạm thời chưa bị chứng ngụy, được công nhận một cách rộng rãi. Nhưng khoa học phát triển hơn, lí thuyết đó sẽ bị chứng ngụy; sau đó một vấn đề, lí thuyết mới sẽ được đưa ra (quay lại bước 1).
Bốn bước trên sẽ được lặp đi lặp lại đến vô cùng, mà nhờ đó khoa học phát triển không ngừng. Popper đã vẽ lại bằng mô hình sau:
P1 -> TT -> EE -> P2 ->…
Trong đó: P1 là nan đề; TT là giải quyết vấn đề bằng việc phỏng định, EE loại bỏ sai lầm bằng kiểm chứng, P2 nan đề mới nảy sinh.
Mô hình này dễ làm ta liên tưởng đến thuyết tiến hóa của Darwin, trong đó, sự cạnh tranh đa dạng, được kiểm nghiệm bằng thực tế, và rồi nảy sinh một loài mới. Chính vì thế, sự tăng trưởng của tri thức như là sự tiến hóa của tri thức.
3.     Chân lí[3]
Từ cách tiếp cận thiên logic học, Popper đặt ra vấn đề rằng nhiệm vụ của khoa học không phải là đạt được chân lí, mà là hướng tới các phỏng định cận chân (gần với chân lí). Ông chỉ ra rằng, những mệnh đề kiểu “Hôm nay nếu không nắng thì mưa” có tính chân thực xác suất là 1 (tuyệt đối đúng); nhưng “dung lượng” nội dung của nó nghèo nàn, chẳng thể phát triển gì thêm được. Mặt khác, “dung lượng” nội dung của một lí thuyết càng phong phú, thì độ cận chân của nó càng cao; vì vậy, nội dung và xác suất tỉ lệ thuận với nhau. Mục đích của khoa học là đưa ra các lí thuyết vừa phong phú về nội dung, vừa cận chân. Điều này rất phù hợp với quan điểm về việc các lí thuyết khoa học phải liên tục bị đem ra “kiểm sai” vì nó chỉ cận chân mà thôi.
Với hai lí thuyết A1 và A2, những tiêu chí sau dùng để đo “độ cận chân” là:
-         A2 trải qua sự kiểm nghiệm chính xác hơn A1.
-         A2 giải thích được nhiều sự thật hơn A1.
-         A2 mô tả/giải thích sự thật tường tận hơn A1.
-         A2 trải qua được những kiểm nghiệm mà A1 không thể.
-         A2 chỉ ra những thực nghiệm mà A1 không nghĩ tới và A2 đã trải sự kiểm nghiệm của thực nghiệm đó.
-         A2 có liên hệ với vấn đề mà A1 cho rằng không có liên hệ.

4.     Ba thế giới – một cái nhìn tổng quan về tri thức và chủ nghĩa duy thực triệt để[4]
Ngay từ giai đoạn đầu, Popper đã luôn phê phán một cách mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm (và những thuyết tương tự như chủ nghĩa kinh nghiệm logic; thuyết “nhất nguyên luận trung lập”,…). Từ những năm 50, cùng với sự tan rã của chủ nghĩa kinh nghiệm logic, là sự nổi lên của vật lí lượng tử - trong thế giới vi mô, các định luật, công thức vật lí chỉ mang “tính ước đoán”; “dùng để thao tác”; đã khiến cho các triết gia và các nhà khoa học nghi ngờ chủ nghĩa duy thực, quay về với chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Trong bối cảnh đó, Popper kiên quyết đứng trên quan điểm thực tại luận để xác lập kiến giải cho những biến đổi mới của triết học khoa học.
Trước nhất, ông khẳng định khoa học, tư duy lí tính đều xuất phát từ “lương năng thông thường” (common sense), mặc cho lương năng thông thường đó có thể sai lầm, thì sau một quá trình phê phám kiểm nghiệm nghiêm khắc, ta có thể nhận ra các sai lầm rồi rút ra các bài học. Vì thế ông khẳng định “luận điểm đầu tiên của tôi là: xuất phát điểm của chúng ta là lương năng thông thường [về thực tại], còn thứ công cụ vĩ đại nhờ đó ta tiến bộ là phép phê phán”. Cũng từ đó mà thực tại là cơ sở phương pháp luận cho khoa học.  
Tiếp đó, Popper tiến hành phê phán các chủ nghĩa phủ định thực tại như “quyết định luận”, “chủ nghĩa duy tâm chủ quan”, “chủ nghĩa phi lí tính”, “chủ nghĩa hư vô”. Ông chỉ ra rằng những lí luận của các chủ nghĩa trên không thể kiểm sai bằng thực nghiệm, nó luôn có thể áp dụng vào mọi chỗ (ví dụ như “tôi đang không đọc những dòng chữ này, tôi chỉ đang mơ về việc đọc, về cái máy tính có chữ mà thôi), vì thế nó không thể đứng vững. Đặc biệt, ông nhấn mạnh rằng những thuyết trên sẽ chẳng dẫn đến đâu, chỉ đem đến sự phí hoài về tâm trí mà thôi “trong lúc giới tự nhiên đang bị tàn phá – mà đâu chỉ giới tự nhiên – thì các nhà triết học thì đôi lúc tỏ ra thông tuệ, đôi lúc không, cứ quanh quẩn với câu hỏi thế giới này thực ra có tồn tại hay không. Họ không sao thoát khỏi lối suy nghĩ kinh viện, không sao thoát được những câu đố về chữ nghĩa…”
Rốt cuộc, Popper đưa ra một cái nhìn tổng thể về thế giới; ông chia thành thế giới 1, thế giới 2, thế giới 3. Trong đó, “Thế giới 1” gồm những sự vật hiện tượng thuộc về vật lí – tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý chí của con người. “Thế giới 2” là thế giới của trạng thái tinh thần chủ quan, như trạng thái tâm lí, ý thức, cảm tính. “Thế giới 3” là thế giới tư tưởng, đặc biệt là tư tưởng khoa học, ông gọi thế giới này là thế giới “tri thức khách quan”. Ba thế giới này có tác động liên tục đến nhau theo tuần tự thế giới 1 đến thế giới 2, thế giới 2 đến thế giới 3, và thế giới 3 và thế giới 1 có tác động thông qua trung gian là thế giới 2.
Việc phân chia này đem giải quyết được nhiều vấn đề triết học:
-         Lấy thực tại làm cơ sở (thế giới 1)
-         Giải quyết được những tranh cãi về duy tâm và duy vật (đồng thời công nhận cả thế giới 2 và thế giới 3)
-         Không phủ định hoàn toàn siêu hình học, tôn giáo. Chỉ ra mối quan hệ giữa siêu hình học và khoa học
-         Nhấn mạnh tầm quan trọng của ngôn ngữ trong việc luận giải thế giới
-         Nhấn mạnh vai trò quan trọng của tri thức trong việc xây dựng thế giới

Tư tưởng của Karl Popper ngày nay cũng đã bị vượt qua bởi những lí thuyết mới (đúng như những gì lí thuyết của ông nêu ra) nhưng những ý tưởng và cảm hứng từ ông vẫn còn nguyên vẹn trong nền triết học thế giới. Đọc “Tri thức khách quan” dễ dàng giúp ta cảm nhận sự sôi động của triết học phương Tây suốt thế kỉ XX mà Karl Popper đã đứng giữa bao dòng triết học, tận tình đưa ta những kiến giải đầy sáng suốt và quý giá.


[1] Tham khảo các bài “Tri thức phỏng định: Cách giải quyết vấn đề quy nạp của tôi” (tr  21) và “Hai vế của lương năng thông thường” (tr 61) trong sách
[2] Tham khảo các bài “Tri thức luận không bao gồm chủ thể đang nhận thức” (tr 155), “Mục đích của khoa học” (tr 263), “Sự tiến hóa và Cây tri thức” (tr 343) trong sách
[3] Tham khảo bài “Những bình luận triết học về Lí thuyết Chân lí của Tarski” (tr 419) trong sách
[4] Tham khảo bài “Hai vế của lương năng thông thường” (tr 61) “Tri thức luận không bao gồm chủ thể nhận thức” (tr 155) trong sách