Thứ Hai, 23 tháng 9, 2013

MỘT CÁI NHÌN TIẾN HÓA VỀ TRI THỨC KHOA HỌC

MỘT CÁI NHÌN TIẾN HÓA VỀ TRI THỨC KHOA HỌC

(Karl Popper, “Tri thức khách quan”, 2013, NXB Tri thức)
Nguyễn Minh

Karl Popper (1902-1994) là một trong những nhà triết học xuất sắc nhất của thế kỉ XX. Những đóng góp của ông cho triết học trải rộng trên rất nhiều lĩnh vực: chủ thuyết duy thực, nhận thức luận, triết học chính trị, triết học ngôn ngữ, … nhưng ông luôn được nhớ đến như triết gia làm nên cuộc cách mạng trong triết học khoa học nửa đầu thế kỉ XX, mà ảnh hưởng của nó vẫn còn sâu rộng đến tận ngày nay. Tư tưởng về triết học khoa học của ông tập trung trong ba cuốn “Logic khám phá khoa học” (1934), “Phỏng định và bác bỏ” (1953), “Tri thức khách quan” (1972); trong đó “Tri thức khách quan” trình bày một cách hoàn thiện và tổng quát nhất những thành tựu triết học Karl Popper đạt được.
Tìm hiểu những chủ đề chính của cuốn sách cũng là cách chúng ta bước đầu tiếp thu di sản triết học khoa học đồ sộ của Karl Popper.
1.     Bài toán quy nạp và vấn đề phân ranh[1]
Khoa học, trong giai đoạn đầu, được xây dựng trên cơ sở của thuyết quy nạp. Theo đó, khoa học bắt đầu từ việc tích lũy các quan sát riêng lẻ, khi số lần quan sát các hiện tượng lặp đi lặp lại đủ lớn, có thể rút ra một quy luật khách quan chung (ví dụ quan sát 1000 lần việc thả quả táo xuống thì quả táo rơi, từ đó ta có thể rút ra một quy luật vật lí nào đó); hay nói cách khác là từ kinh nghiệm nâng lên lí luận. Sau này thuyết quy nạp được phát triển một bước cao hơn thành thuyết kinh nghiệm logic của trường phái Vienna. Nhưng thuyết này có rất nhiều nhược điểm như:
-         Không có gì đảm bảo các quan sát trong tương lai có thể lặp lại hoàn toàn giống với các quan sát trong quá khứ.
-         Các kinh nghiệm chỉ cho ta thấy thứ tự trước sau của các hiện tượng, chứ không đủ để đưa ra một mối quan hệ nhân quả giữa các hiện tượng.
Người đầu tiên công kích mạnh mẽ thuyết quy nạp, làm lung lay toàn bộ nền tảng của khoa học; là David Hume. Nhưng ông giải quyết bài toán quy nạp bằng cách biện minh cho quy nạp là một “tập quán tâm lí” chứ không phải vấn đề logic hay nhận thức. Từ gợi ý của Hume, Popper tiến tới một phủ định triệt để bài toán quy nạp truyền thống và tiến đến việc xây dựng khái niệm “kiểm sai”. Quan điểm của ông như sau:
(P1) Giả thuyết tồn tại trước quan sát. Khi đã phỏng đoán ra giả thuyết, các nhà khoa học tiến hành quan sát để trắc nghiệm lại giả thuyết đó.
(P2) Một giả thuyết chỉ đứng vững khi người ta chưa tìm được các quan sát đi ngược lại nó.
(P3) Khi tìm được các quan sát chứng tỏ giả thuyết là sai, thì giả thuyết đó bị bác bỏ, từ đó một giả thuyết mới được sinh ra.
Nhờ vào phép kiểm sai, Popper đã phủ định mối liên hệ giữa phép quy nạp và khoa học, chỉ ra tiêu chuẩn của khoa học là “kiểm sai”; vì giả thuyết khoa học không thể kiểm đúng, nhưng có thể kiểm sai.
Từ quan điểm này, Popper đặt ra tiêu chuẩn phân ranh giữa khoa học và phi khoa học hay trả lời câu hỏi: “Khoa học là gì?”. Ông cho rằng “Mọi lí thuyết [khoa học] đều là các giả thuyết, tất cả đều có khả năng bị đổ”. Vì thế linh hồn của khoa học là sự phê-phán–không–biện–minh; trái với tôn giáo hay siêu hình học - nơi các “chân lí” được miễn nhiễm với các phê phán hay không thể được trắc nghiệm để kiểm chứng tính đúng sai. Đó cũng chính động lực phát triển của khoa học.
2.                       Sự tăng trưởng của tri thức khoa học[2]
Với Popper, câu hỏi trung tâm của nhận thức luận không phải là “Nguồn gốc của tri thức từ đâu?” mà là “Tri thức tăng trưởng như thế nào?”; và khảo sát tri thức, không gì quan trọng bằng khảo sát tri thức khoa học.
Tiếp tục ý tưởng “kiểm sai”, Popper khái quát sự tăng trưởng của tri thức khoa học (rộng hơn là sự tăng trưởng của tri thức) làm bốn bước:
1)    Khoa học bắt đầu từ các “nan đề” (problem). Nhà khoa học phải suy nghĩ, tìm hiểu nan đề đó.
2)    Nhà khoa học phỏng định các giả thuyết có thể giải quyết được nan đề đó.
3)    Các giả thuyết, lí luận khác nhau được đưa ra; tiếp thu và cạnh tranh với nhau, trải qua sự kiểm nghiểm nghiêm ngặt của quan sát và thực nghiệm, dần dần loại bỏ các sai lầm; từ đó lí thuyết mới ra đời, có độ cận chân (gần với chân lí) cao.
4)    Lí thuyết mới đó tạm thời chưa bị chứng ngụy, được công nhận một cách rộng rãi. Nhưng khoa học phát triển hơn, lí thuyết đó sẽ bị chứng ngụy; sau đó một vấn đề, lí thuyết mới sẽ được đưa ra (quay lại bước 1).
Bốn bước trên sẽ được lặp đi lặp lại đến vô cùng, mà nhờ đó khoa học phát triển không ngừng. Popper đã vẽ lại bằng mô hình sau:
P1 -> TT -> EE -> P2 ->…
Trong đó: P1 là nan đề; TT là giải quyết vấn đề bằng việc phỏng định, EE loại bỏ sai lầm bằng kiểm chứng, P2 nan đề mới nảy sinh.
Mô hình này dễ làm ta liên tưởng đến thuyết tiến hóa của Darwin, trong đó, sự cạnh tranh đa dạng, được kiểm nghiệm bằng thực tế, và rồi nảy sinh một loài mới. Chính vì thế, sự tăng trưởng của tri thức như là sự tiến hóa của tri thức.
3.     Chân lí[3]
Từ cách tiếp cận thiên logic học, Popper đặt ra vấn đề rằng nhiệm vụ của khoa học không phải là đạt được chân lí, mà là hướng tới các phỏng định cận chân (gần với chân lí). Ông chỉ ra rằng, những mệnh đề kiểu “Hôm nay nếu không nắng thì mưa” có tính chân thực xác suất là 1 (tuyệt đối đúng); nhưng “dung lượng” nội dung của nó nghèo nàn, chẳng thể phát triển gì thêm được. Mặt khác, “dung lượng” nội dung của một lí thuyết càng phong phú, thì độ cận chân của nó càng cao; vì vậy, nội dung và xác suất tỉ lệ thuận với nhau. Mục đích của khoa học là đưa ra các lí thuyết vừa phong phú về nội dung, vừa cận chân. Điều này rất phù hợp với quan điểm về việc các lí thuyết khoa học phải liên tục bị đem ra “kiểm sai” vì nó chỉ cận chân mà thôi.
Với hai lí thuyết A1 và A2, những tiêu chí sau dùng để đo “độ cận chân” là:
-         A2 trải qua sự kiểm nghiệm chính xác hơn A1.
-         A2 giải thích được nhiều sự thật hơn A1.
-         A2 mô tả/giải thích sự thật tường tận hơn A1.
-         A2 trải qua được những kiểm nghiệm mà A1 không thể.
-         A2 chỉ ra những thực nghiệm mà A1 không nghĩ tới và A2 đã trải sự kiểm nghiệm của thực nghiệm đó.
-         A2 có liên hệ với vấn đề mà A1 cho rằng không có liên hệ.

4.     Ba thế giới – một cái nhìn tổng quan về tri thức và chủ nghĩa duy thực triệt để[4]
Ngay từ giai đoạn đầu, Popper đã luôn phê phán một cách mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm (và những thuyết tương tự như chủ nghĩa kinh nghiệm logic; thuyết “nhất nguyên luận trung lập”,…). Từ những năm 50, cùng với sự tan rã của chủ nghĩa kinh nghiệm logic, là sự nổi lên của vật lí lượng tử - trong thế giới vi mô, các định luật, công thức vật lí chỉ mang “tính ước đoán”; “dùng để thao tác”; đã khiến cho các triết gia và các nhà khoa học nghi ngờ chủ nghĩa duy thực, quay về với chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Trong bối cảnh đó, Popper kiên quyết đứng trên quan điểm thực tại luận để xác lập kiến giải cho những biến đổi mới của triết học khoa học.
Trước nhất, ông khẳng định khoa học, tư duy lí tính đều xuất phát từ “lương năng thông thường” (common sense), mặc cho lương năng thông thường đó có thể sai lầm, thì sau một quá trình phê phám kiểm nghiệm nghiêm khắc, ta có thể nhận ra các sai lầm rồi rút ra các bài học. Vì thế ông khẳng định “luận điểm đầu tiên của tôi là: xuất phát điểm của chúng ta là lương năng thông thường [về thực tại], còn thứ công cụ vĩ đại nhờ đó ta tiến bộ là phép phê phán”. Cũng từ đó mà thực tại là cơ sở phương pháp luận cho khoa học.  
Tiếp đó, Popper tiến hành phê phán các chủ nghĩa phủ định thực tại như “quyết định luận”, “chủ nghĩa duy tâm chủ quan”, “chủ nghĩa phi lí tính”, “chủ nghĩa hư vô”. Ông chỉ ra rằng những lí luận của các chủ nghĩa trên không thể kiểm sai bằng thực nghiệm, nó luôn có thể áp dụng vào mọi chỗ (ví dụ như “tôi đang không đọc những dòng chữ này, tôi chỉ đang mơ về việc đọc, về cái máy tính có chữ mà thôi), vì thế nó không thể đứng vững. Đặc biệt, ông nhấn mạnh rằng những thuyết trên sẽ chẳng dẫn đến đâu, chỉ đem đến sự phí hoài về tâm trí mà thôi “trong lúc giới tự nhiên đang bị tàn phá – mà đâu chỉ giới tự nhiên – thì các nhà triết học thì đôi lúc tỏ ra thông tuệ, đôi lúc không, cứ quanh quẩn với câu hỏi thế giới này thực ra có tồn tại hay không. Họ không sao thoát khỏi lối suy nghĩ kinh viện, không sao thoát được những câu đố về chữ nghĩa…”
Rốt cuộc, Popper đưa ra một cái nhìn tổng thể về thế giới; ông chia thành thế giới 1, thế giới 2, thế giới 3. Trong đó, “Thế giới 1” gồm những sự vật hiện tượng thuộc về vật lí – tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý chí của con người. “Thế giới 2” là thế giới của trạng thái tinh thần chủ quan, như trạng thái tâm lí, ý thức, cảm tính. “Thế giới 3” là thế giới tư tưởng, đặc biệt là tư tưởng khoa học, ông gọi thế giới này là thế giới “tri thức khách quan”. Ba thế giới này có tác động liên tục đến nhau theo tuần tự thế giới 1 đến thế giới 2, thế giới 2 đến thế giới 3, và thế giới 3 và thế giới 1 có tác động thông qua trung gian là thế giới 2.
Việc phân chia này đem giải quyết được nhiều vấn đề triết học:
-         Lấy thực tại làm cơ sở (thế giới 1)
-         Giải quyết được những tranh cãi về duy tâm và duy vật (đồng thời công nhận cả thế giới 2 và thế giới 3)
-         Không phủ định hoàn toàn siêu hình học, tôn giáo. Chỉ ra mối quan hệ giữa siêu hình học và khoa học
-         Nhấn mạnh tầm quan trọng của ngôn ngữ trong việc luận giải thế giới
-         Nhấn mạnh vai trò quan trọng của tri thức trong việc xây dựng thế giới

Tư tưởng của Karl Popper ngày nay cũng đã bị vượt qua bởi những lí thuyết mới (đúng như những gì lí thuyết của ông nêu ra) nhưng những ý tưởng và cảm hứng từ ông vẫn còn nguyên vẹn trong nền triết học thế giới. Đọc “Tri thức khách quan” dễ dàng giúp ta cảm nhận sự sôi động của triết học phương Tây suốt thế kỉ XX mà Karl Popper đã đứng giữa bao dòng triết học, tận tình đưa ta những kiến giải đầy sáng suốt và quý giá.


[1] Tham khảo các bài “Tri thức phỏng định: Cách giải quyết vấn đề quy nạp của tôi” (tr  21) và “Hai vế của lương năng thông thường” (tr 61) trong sách
[2] Tham khảo các bài “Tri thức luận không bao gồm chủ thể đang nhận thức” (tr 155), “Mục đích của khoa học” (tr 263), “Sự tiến hóa và Cây tri thức” (tr 343) trong sách
[3] Tham khảo bài “Những bình luận triết học về Lí thuyết Chân lí của Tarski” (tr 419) trong sách
[4] Tham khảo bài “Hai vế của lương năng thông thường” (tr 61) “Tri thức luận không bao gồm chủ thể nhận thức” (tr 155) trong sách

Thứ Bảy, 25 tháng 6, 2011

Diễn từ trong lễ tốt nghiệp (của một cử nhân vô danh)

0.
Chào các bạn,
Chắc giờ các bạn đang ngồi trong một khán phòng lớn, chờ tấm bằng đại học – một mảnh giấy chứng nhận kết quả học tập trong bốn năm, bốn năm tươi đẹp nhất của thời tuổi trẻ - với lòng tự hào, hân hoan hoặc thanh thản. Nhưng cũng chắc là, hầu hết các bạn đang ngáp dài vì phải nghe một bài “diễn văn” hấp dẫn như … nghị quyết – được đọc theo phong cách tập đánh vần. Điều này thật là tệ, vì trong buổi lễ tốt nghiệp, với tôi, điều quan trọng nhất không phải chụp ảnh hay có một kỉ niệm gì đó, mà tôi cần một lời nói khôn ngoan và trách nhiệm của bạn tôi hoặc một bậc tiền bối về tương lai của tôi; đó sẽ là một hành trang tinh thần cuối cùng mà bạn nhận được từ Đại học, khi bạn chuẩn bị bị vứt ra ngoài cuộc sống rối ren.
Thế nên, nếu bạn đã ngán đến tận cổ sự sơ mòn và thói dối trá của những lời vô hồn, nếu bạn cần một tiếng nói được cất lên từ lương tri và trí tuệ của một tân cử nhân trung thực và đồng cảm; thì mời bạn đọc những dòng tiếp sau đây (như tôi thì chả ai mời lên phát biểu đâu :D)
1.
Hôm nay, tôi sẽ nói với các bạn rằng khi các bạn cầm tấm bằng bước ra khỏi cổng trường đại học, thì xã hội (mà rộng hơn là cuộc sống) cần gì ở bạn, và ngược lại, bạn cần gì ở xã hội. Để trả lời câu hỏi này, dĩ nhiên bạn phải tự lăn lộn, tự trải nghiệm (việc này thường khó hơn việc học nhiều); nhưng bây giờ ta cứ thử thảo luận nghi đề này, coi như buổi thảo luận (ít nhiều lí thuyết) cuối cùng ở trường Đại học.
Cái mà xã hội thật sự cần ở một tân cử nhân có phải là một trí não đầy rẫy các lí thuyết, niềm tự hào bằng cấp hoặc lối làm việc nguyên tắc như trong sách; và cái một tân cử nhân thật sự cần ở xã hội có phải đồng lương hậu hĩnh, căn nhà ổn định, hoặc cơ hội thăng tiến hay không.
Câu trả lời của tôi là Không, chính xác là, KHÔNG CHỈ thế.
2.
Cách đây 250 năm, một tác phẩm sáng chói trong lịch sử loài người đã ra đời. Đó là “Bàn về khế ước xã hội” (Du Contrat social) của J.J.Rousseau. Câu làm tôi nhớ tới tác phẩm này nhất là “Vấn đề cơ bản của khế ước xã hội là “mỗi thành viên trong khi khép mình vào tập thể, vận dụng sức mạnh tập thể, vẫn được tự do đầy đủ như trước, vẫn chỉ tuân theo bản thân mình” “.
Và câu trả lời của tôi cho câu hỏi được đặt ra cũng gần tương tự như câu trích trên: Xã hội cần bạn (tân cử nhân) khép mình vào tập thể, nhưng bạn cần ở xã hội sự tự do (cá nhân) đầy đủ; mối quan hệ này được đảm bảo bởi một khế ước xã hội.
Chúng ta hãy cùng bàn đến rốt ráo mấy từ được in nghiêng trên (những từ này tôi chỉ mượn lại của Rousseau, nhưng tôi không dùng với nghĩa mà ông đã dùng), vì mới nghe qua, bạn sẽ thấy câu trên thật viển vông; thường thì khép mình và tự do luôn trong tư thế đối nghịch nhau chứ không phải đồng hiện, và khế ước xã hội là cái gì đó rất mù mờ.
3.
Mới dùng chữ khép mình, chắc trong đầu không ít bạn sẽ hiện lên cơn ác mộng thường thấy trong trường Đại học (ở Việt Nam). Đó là những buổi họp, những lần triệu tập vô nghĩa lí, luôn đi kèm những câu doạ nạt kiểu “Có điểm danh”, “Không đi sẽ trừ điểm hạnh kiểm”,… Xin bạn đừng nhầm việc khép mình với phục tùng – hay là từ bỏ tự do. Sự phục tùng được sinh ra khi mà “sức mạnh đã thành ra hợp pháp” tức là sự cưỡng ép (theo kiểu chỉ thị) được hiện thực hoá thành những thứ hợp pháp như “điểm hạnh kiểm” hay “lần điểm danh”. Thật đáng xấu hổ, khi Đại học - một cộng đồng của thầy và trò -, người ta lại không vận hành nó theo nguyên tắc lí tính; mà theo phong cách của kẻ mạnh thích đè nén kẻ yếu một cách không khoan dung.
Quay về với sự phục tùng; bạn hãy tưởng tượng công việc mà bạn sắp làm, đó là một cỗ máy, bạn là một cái đinh vít nhỏ, đồng nghiệp (cao tuổi) của bạn là cái đinh vít to, sếp của bạn là đầu máy lớn, vân vân, mỗi người là một bộ phận của một tổng thể. Cỗ máy không thể vận hành tốt đẹp nếu đinh vít không được lắp đúng chỗ, đầu máy không chạy hết công suất. Tự biết mình là cái đinh vít, tự biết mình cần ở vị trí nào, tự biết mình đã được vặn chặt chưa,… đó là những ẩn dụ cho việc khép mình. Việc khép mình ấy đem lại lợi ích chung to lớn cho cả tập thể lẫn cá nhân, cho sự vận hành trơn chu và hoàn chỉnh của công việc. Nhưng làm sao để tự biết và việc tự biết này thì liên quan gì đến Đại học? Đáp án ở đây là lí tính – trí tuệ, cái mà bạn phải trui rèn trong suốt bốn năm Đại học. Có kiến thức, bạn mới nhận ra mình xứng đáng ở vị trí nào, mình thực hiện công việc ở vị trí ấy có tốt không, mình trong mối quan hệ với những bộ phận khác thế nào,… từ đó, bạn được quyền lựa chọn có khép mình hay không. Đó chính là lí do việc khép mình và tự do cùng tồn tại trong câu trả lời của tôi
4.
Tự do, tôi luôn ví đó là một cô gái đẹp quyến rũ và đầy bí ẩn; và mấy anh chàng (nhất là sinh viên ^^) thì chả bao giờ với tới cô ta được, nên bàn đến cô ta thật là hão huyền. Nhưng giờ ta nhìn ngắm cô ta chút cũng không sao.
Chúng ta luôn đòi hỏi ở xã hội một sự tự do, vì chỉ khi tự do, những gì bạn có, những gì bạn tiếp thu từ trường học; mới được phát huy tối đa sức mạnh của nó. Có nhiều kiểu tự do, và nhiệm vụ Đại học phải làm là tạo ra những con người tự do trong suy nghĩ, và sau đấy, khi ra ngoài xã hội, anh ta mới có thể tự do hành động được. Những người rời khỏi cổng trường Đại học, thì phải có sứ mạng lan toả sự tự do trong suy nghĩ ấy (sự tự do lí tính); phải luôn dẫn đầu trong việc đấu tranh cho tự do, xây dựng một xã hội mà nguyên tắc lí tính luôn là người dẫn đường đáng tin cậy. Chỉ ở một xã hội như thế, thì sự tự do cá nhân mới được tôn trọng đầy đủ và toàn vẹn. Bạn thấy đấy, khi bạn đòi hỏi từ xã hội sự tự do, thì chính bạn phải một nhân tố tích cực đem lại điều đó. Bạn không thể ngồi một chỗ, hét lên “Tự do đâu, đem ngay ra đây cho tôi” mà bạn phải đấu tranh để có nó. Bằng kiến thức của mình, bạn thực hiện cuộc đấu tranh ấy vừa như một quyền lợi vừa như một nghĩa vụ.
5.
Đến đây, chắc bạn đã có câu trả lời cho khế ước xã hội mà tôi muốn đề cập đến. Khế ước xã hội có thể bao gồm rất nhiều thứ, nhưng với tôi, với các bạn, những tân cử nhân, thì nó trước trước hết phải được xây dựng trên cơ sở của tri thức – kiến thức – trí tuệ, những thứ gắn liền với mục đích mà bạn bước vào Đại học, và giờ đây, khi bạn rời đi, nó lại càng cần được thắp lên ngời sáng hơn bao giờ hết
Xin cám ơn đã cùng tôi suốt bốn năm, các bạn của tôi
Nguyễn Minh
(sẽ còn sửa một chút)

Thứ Sáu, 24 tháng 6, 2011

Tư tưởng là gì (1)

0.

Vì một vài lí do, gần đây, tôi thấy phải trả lời rốt ráo câu hỏi “Tư tưởng là gì”. Việc đó thật là khó, nhất là người còn có chưa có nhiều kinh nghiệm như tôi (tại sao tôi lại dùng từ “kinh nghiệm”, ta sẽ thấy ở sau). Vì muốn trả lời được, tôi phải trả lời một loạt câu hỏi nhỏ (nhưng không hề dễ hơn) như “Tư tưởng hình thành từ đâu”, “Tư tưởng là trừu tượng hay cụ thể”, “Có cái gì gọi là tư tưởng vĩnh cửu hay không”… Vậy nên, tôi viết bài này chỉ để trình bày một cách sơ lược (và chưa chính xác lắm) về “tư tưởng”, theo quan niệm của tôi.

Thật dễ để nói rằng, tư tưởng là cái gì đó thuộc về “tâm trí”, hay dùng từ dễ hiểu hơn là “suy nghĩ”. Suy nghĩ là điều ta làm hàng ngày; nhưng điều kiện gì để một suy nghĩ trở thành, hay thuộc về tư tưởng. Đó sẽ là cách mà tôi trả lời câu hỏi “Tư tưởng là gì”

1.

Có người cho rằng, tư tưởng là một hệ thống lí thuyết kinh viện, tức là các suy nghĩ đã được đúc rút lại thành một hệ thống - cái chứa một loạt các định nghĩa, mệnh đề, … theo một trình tự nhất định. Nhất là, nó thường được truyền bá hoặc lưu giữ lại dưới dạng sách vở, lời trích dẫn,…. Cụ thể là, khi muốn biết “tư tưởng của Marx” là gì, thì việc đầu tiên của ta là đọc một loạt sách của Marx, sách nói về Marx, rồi sau đó ta sẽ rút ra được một vài khái niệm hoặc câu nói tiêu biểu nào đó. Thế là, ta nắm sơ sơ được “tư tưởng Marx” là gì.

Ta sẽ phản bác lại quan điểm này như sau:

Ta không thể chỉ vào một người bất kì rồi nói “Anh chẳng có tư tưởng gì cả”. Có thể những suy nghĩ trong đầu anh ta không thành một hệ thống kinh viện nào, hoặc nó gồm nhiều phần rời rạc của các lí thuyết kinh viện khác nhau; nhưng không vì thế mà ta được quyền nói rằng anh ta không có tư tưởng gì cả. Ví dụ như, khi phải tiếp nhận một loạt vấn đề A B C D E nào đó, anh ta chỉ kiên quyết tiếp nhận A B, mà nhất quyết không chịu nhìn nhận C D, và bỏ qua E; thì ta nói rằng anh ta có “tư tưởng bảo thủ”. Rõ ràng là, tư tưởng đã được chuyển hoá vào trong hành động (*) mà không hề tồn tại dưới dạng kinh viện nữa.

Như vậy, ta có thể nói rằng, tư tưởng không chỉ tồn tại dưới dạng hệ thống lí thuyết kinh viện, hệ thống ấy chỉ giúp ta dễ dàng tiếp cận tư tưởng mà thôi.

2

Hơi khác với quan điểm ở (1) một chút, người ta cho rằng tư tưởng là một hệ thống các suy nghĩ đặc trưng cho một nhóm xã hội có uy tín nhất định. Ví dụ như khi nói đến “tư tưởng thời Trung cổ” thì ta nghĩ ngay đến suy nghĩ của giáo hội Thiên chúa (vì giáo hội có quyền uy nhất thời đó), khi nói đến “tư tưởng chính trị” thì ta cũng phải chỉ ra được đó tư tưởng chính trị của những người Cộng hoà hay của người Dân chủ. Quan điểm này đúng (ở mức độ nào đó) nhưng nó vấp phải hai trở ngại là

(i) Tư tưởng rất có thể bị nhầm sang “giáo điều” – một thứ suy nghĩ được hình thành nên do một nhóm đặc quyền đặc lợi rao giảng, và dùng sức mạnh ép các nhóm khác phải theo.

(ii) Tư tưởng không phải là cái được đóng khung trong một nhóm người nào đó. Nó có thể được sinh ra, hoặc trở thành đặc trưng suy nghĩ của chỉ một nhóm mà thôi, nhưng nó luôn phải được trao đổi hoặc lây lan giữa cách nhóm - cả dưới dạng lĩnh hội lẫn phê phán (tất nhiên đôi khi tư tưởng vẫn bị “bóp chết”, nhưng đó chỉ là tạm thời). Quá trình ấy quyết định cái gọi là “tư tưởng của nhân loại”.

Qua đây, ta thấy rằng, tư tưởng là một cái gì đó không có giới hạn (hiểu theo nghĩa rộng nhất của “giới hạn”), và tư tưởng luôn ở trong một quá trình “động” liên tục của các suy nghĩ.

3.

Từ luận điểm (*) ở (1) người ta cho rằng, tư tưởng là một dạng suy nghĩ có thể thúc đẩy ta thực hiện (một loạt) các hành động nào đó. Ví dụ như một tay đánh bom liều chết, thì người ta nói là do “tư tưởng Hồi giáo” thôi thúc anh ta làm thế. Nhưng, ví dụ như, ta không chạm tay vào lửa, thì việc đó là do suy nghĩ “chạm tay vào lửa là bỏng” khiến ta làm thế. Nhưng cái suy nghĩ ấy không phải là “tư tưởng”. Đó chưa kể, khi ta hành động gì, thì ta cũng bị thôi thúc bởi cả cảm xúc, dục vọng, …., nữa. Vậy, thật khó mà tách biệt ra được đâu là tư tưởng, đâu không là “tư tưởng” trong những nhân tố thôi thúc ta làm một việc nào đó.

Quay lại với tay đánh bom liều chết, ta hay kết luận là, hắn bị một“tư tưởng tiêu cực” dẫn đắt đến hành động sai trái; vì thế ta phải điều khiển hành động của ta, để nó không theo cái “tư tưởng tiêu cực” kia. Trong khi đó, trong đầu tên khủng bộ lại nghĩ: hắn đang được một tư tưởng siêu việt dẫn đường, và cái việc hắn làm thật đúng đắn, vì thế hẳn phải đánh bom. Như vậy ở đây xuất hiện hai tư tưởng khác nhau (về cùng một hành động đành bom). Vậy thì tư tưởng là cái suy nghĩ thôi thúc ta phải làm gì, chứ không là ta làm gì

(Còn tiếp, nhưng giờ đi tắm đã :D)